“Một là Sĩ phu thức giả ngoảnh mặt đi trước thời cuộc.
Hai là xã tắc tham nhũng tràn lan.
Ba là binh kiêu ngạo, tướng thoái hóa.
Bốn là học trò không kính trọng thầy giáo.
Năm là trẻ con khinh thường người già”
Liệu rằng lời dạy của cố nhân đến nay vẫn còn giá trị ?
Đi theo dòng lịch sử, con người đang tiến dần đến thế kỉ XXI, thế kỉ mà không phải là sự đồ sộ của diện tích, kho vũ khí hay tài nguyên thiên nhiên mới trở thành thứ đáng sợ nhất, thế kỉ này đánh giá việc chiếm thế thượng phong bằng trí tuệ “thứ chất xám vô hình nhưng lại quyết định cái suy vong của giang sơn”. Nếu giới trí thức (Sĩ phu, thức giả ) _những kẻ nắm mái chèo của con thuyền đất nước, có tầm nhìn, hiểu biết rộng, nhận biết được thời cuộc, đặt cái mệnh nước lên trên bản thân thì ắt rằng con thuyền đó chỉ có thể “cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ” mà băng về phía trước không một chút khó khăn; phàm là kẻ chỉ lo lợi dụng thời cuộc, vơ vét cho bản thân, tô điểm trí tuệ bằng học vị lừa trên gạt dưới thì chỉ ắt làm con thuyền thêm nặng vì tải trọng mà sẽ chìm lúc nào không hay. Xây dựng đất nước có khác gì đóng một con thuyền, trong đó kẻ có trí sẽ nắm phần phần thiết kế đo đạc kiểm tra, giả như những người kĩ sư được cả trăm người trọng vọng kia chỉ là một cái quả rỗng ruột thì phải chăng con thuyền ấy cũng sẽ nhanh chóng gặp nạn gây ra cảnh đau thương không khác gì con thuyền Bulgaria trên sông Volga cách đây không lâu? Ấy mới thấy cái tầm quan trọng của những kẻ có học thức, những kẻ được nuôi dưỡng trên mảnh đất phải trả bằng máu xương của bao con người khác, được nuôi bằng thuế của nhân dân cho ngành giáo dục, ắt tự biết mình nên có chút trách nhiệm?
Người ta nói “thức thời mới là anh hùng”, nhưng thế nào là thức thời, trân trọng thời cuộc để làm lợi cho dân tộc hay lợi dụng thời cuộc để trục lợi cá nhân, thế nào mới gọi là thức thời ? Xã hội Việt Nam đang là một xã hội được trí thức hóa dần, tỉ lệ người dân biết chữ thuộc hàng cao nhất thế giới( trung bình 94%), tỉ lệ tiếp xúc với internet, truyền thông báo chí cũng ở con số không nhỏ( top 20 quốc gia có số người dùng internet nhiều nhất thế giới), thành tích trong các đội tuyển Olympic quốc tế cũng phải để cho cường quốc nể mặt , chúng ta không thiếu gì nguồn những “ sĩ phu thức giả” đương đại nhưng có thật là đất nước chúng ta không bị họ ngoảnh mặt làm ngơ trong thời cuộc “cần phát triển để đi lên” hay không? Vụ một người không có nỗi lấy bằng bổ túc cấp ba nhưng cũng ngồi vững trên ghế giám đốc một ngân hàng lớn hàng chục năm, đấy là “trí thức giả” làm hại nước; còn trường hợp không thiếu những kẻ có bằng đỏ bằng vàng đại học trong một bộ máy ăn chặn vốn ODA đến nỗi bên chủ nợ phải làm ầm bên truyền thông nước họ thì bên ta mới lờ mờ hay biết, đấy có khác gì “trí thức mù”….
Thà đừng mang danh trí thức, cứ cố gắng hoàn thành tốt nhiệm vụ của bản thân, góp phần giúp vận nước đi lên , chứ đừng là “trí thức giả “ “trí thức mù”, loại trí thức này có khác gì một lớp sơn bóng bẩy được tô lên để che đậy một thân cây gỗ đã mục nát từ lâu. Lớp sơn ấy không chỉ dấu đi những bệnh cần phải chữa trị kịp thời, nó còn tựa như một bức màn im lặng đến đáng sợ che đi tiếng nói của dân tộc trước cơ hội và thách thức từ thời cuộc bên ngoài. Phải biết rằng không phải chỉ đến khi súng bom nổ ra thì ắt mới có chiến tranh, trong đất nước lúc nào cũng có những cuộc chiến tranh ngầm của những: “ lạm phát; lãi suất và thâm hụt thương mại”. Lạm phát trung bình ở mức 12%, lãi suất cho vay lên cao trên 20%/năm, nhập siêu 12, 5 tỷ đô trong năm 2010 …đó dường như là những cuộc chiến không cần đến đạn dược nhưng cũng đủ lung lay cả một đất nước. Những trí thức đã được nhân dân tin tưởng ngồi ở vị trí lãnh đạo phải bình tĩnh đối diện với thời cuộc tìm lời giải cho bài toàn phát triển còn những người trí thức khác thì đừng xem đó là chỉ như chuyện quốc gia đại sự không liên quan đến mình, đừng thức thời kiểu như biết tin giá điện giá xăng tăng lên thì lục đục tăng giá mọi thứ, tạo sự hỗn loạn trong điều chỉnh kinh tế vĩ mô, đưa làn sóng lạm phát đi đến chỗ không có điểm dừng, nếu vậy thì sự đối mặt với thời cuộc này còn đáng sợ hơn sự ngoảnh mặt làm ngơ.
Trong siêu phẩm Spiderman của Sam Raimi, có một câu nói đã trở thành bất hủ “Quyền năng đi liền với trách nhiệm”, trí tuệ của con người có khác gì năng lực thần kì của Peter Parker , trí tuệ càng cao thì càng phải ý thức được vị trí của mình, càng phải sớm nhận ra những điểm nguy của đất nước mà cố góp sức mình chắn chỉnh, trên dưới một lòng, có chuyện gì mà sẽ không vượt qua?
Tuy nhiên cũng phải nhớ rằng, đừng quá ỷ vào tài sức của mình mà đâm ra kiêu ngạo, thoái hóa đạo đức, đưa đến những hành vi nhũng nhiễu, hách dịch và quan tham, những nguyên nhân gây ra cơn bệnh trầm kha nhất cho sự phát triển của bất kì quốc gia nào _“tham nhũng”.
Từng nhớ trong lịch sử, ở Đàng Trong, thời Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, quyền thần Trương Phúc Loan tham lam vơ vét của công, của dân đến nỗi vàng trong nhà ông nhiều gấp mấy lần quốc khố nghèo nàn của chúa Nguyễn. Băng đảng Trương Phúc Loan hoành hành, lũng đoạn khiến thế lực chúa Nguyễn Đàng Trong suy yếu, dẫn đến họa Phú Xuân bị quân Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy chiếm đóng trước khi quân Tây Sơn khởi nghĩa chấm dứt cơ đồ ngót hai trăm năm của chín đời chúa Nguyễn.
Còn hôm nay, tham nhũng như một căn bệnh đã bám rễ sâu vào lòng đất .Năm 2010, vụ phá sản tập đoàn tàu thủy Vinashin làm rúng động cả nước nhà. Một tập đoàn lớn nhất nước từng là niềm tự hào vô bờ về nền công nghiệp tàu thủy của Việt Nam, cuối cùng cũng phải bị tái cơ cấu hoàn toàn cùng với khoản nợ khổng lồ lên đến 86000 tỷ đồng; Trước đó, tham nhũng đã sớm lên tiếng qua hàng loạt vụ việc nghiêm trọng như PMU18 vào năm 2006, nguyên tổng giám đốc lấy tiền công đi cá độ bóng đá lên đến 1,8 triệu đô hay gần đây vào năm 2008, trong vụ PCI_ vụ tham nhũng vốn ODA xôn xao cả Nhật Bản, đưa một Huỳnh Ngọc Sỹ -kỹ sư xây dựng, cao cấp chính trị, giám đốc ban quản lý dự án Đông Tây vào vòng lao song sắt, chỉ một hành động bắt nguồn từ một người mà gây ra định kiến phiến diện của những nước chủ nợ cấp ODA cho Việt Nam, làm tha hóa bộ máy quản lý, tạo ra môi trường đầu tư không trong sạch. Việt Nam mới thoát được vị trí nước nghèo trở thành nước có thu nhập trung bình, những khoản vay ưu đãi như thế sẽ không còn nhiều, thế nhưng chỉ vì lòng tham của vài kẻ đã chặn đi nguồn lợi to lớn của đất nước, làm cho cái nhìn về Việt Nam bị bôi đen thêm. Theo kết quả nghiên cứu về chỉ số tham nhũng của tổ chức Minh bạch quốc tế thì vị trí xếp hạng của Việt Nam gần như không xê dịch trong nhiều năm. Với thang điểm 10 cho sự trong sạcch nhất và 0 là tham nhũng cao, năm 2006, việt Nam được 2.6 điểm, xếp thứ 111/163; năm 2010, vị thứ của Việt Nam là 116/178 với 2.7 điểm.
Những cái “tham của không phải của mình” không những làm mất đi một khoản to lớn trong vấn đề hưng thịnh đất nước còn gây ra hình ảnh hoen ố cho dân tộc, tạo ra một rào cản vô hình trong việc thu hút nguồn vốn từ nước khác, hạ thấp địa vị tổ quốc trên chính trường quốc tế.Việc không vượt qua những cám dỗ của vật chất, không những làm tha hóa đi trí tuệ của người lãnh đạo mà còn gây ra ác cảm từ nhân dân, tạo ra sự mâu thuẫn trong xã hội, những hậu quả như thế liệu số tiền đã bị tham những có bù đắp vào nổi?
Bên cạnh những vụ tham nhũng bị phanh phui trên các mặt báo với mức độ kinh hoàng đang tăng theo cấp số nhân thì ngày ngày trong xã hội Việt Nam vẫn luôn tồn tại một loại tham nhũng khác, thường được gọi là “tham nhũng vặt”. Tham những vặt với giá trị không lớn nhưng tần số và độ ảnh hưởng đến xã hội thì cũng không hề thua kém, đến nỗi nó từng không được xem là một tệ nạn mà được coi như một “văn hóa ứng xử” tại nơi văn phòng công sở. “Tham nhũng vặt” là loại hình đút lót với giá trị khoảng vài chục ngàn, thậm chí vài trăm ,vài triệu đồng cho người cấp cao hơn nhằm hy vọng công việc được thuận buồm mát mái.
Tham nhũng vặt là hành vi xuất phát từ sự hư hỏng của nhân viên công quyền nhưng cũng nhiều khi xuất phát từ chính thói quen của người dân. Đối với đa phần người dân coi việc phải trả thêm chi phí khi đến làm việc tại các công sở, bệnh viện, đoàn thể nhà nước là một điều đương nhiên, vì thấy xung quanh ai cũng như mình cả. Tại sao lại có điều này? Thứ nhất, đó như một cái tục “cha truyền con nối”, muốn nhanh hơn, đúng hơn và tạo ra sự an tâm hơn, dĩ nhiên là phải chịu bỏ thêm ; thứ hai, khi đụng đến chính quyền, mọi người đều mang tâm lý của kẻ đi xin một cái gì đó ,dù đấy là quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình. “Xin” con dấu, “xin” chữ kí, vì là xin nên ắt phải cho thêm, chính những câu nói đầu môi đã trở thành thói quen chính là một nguyên nhân gây ra”tham nhũng vặt”, cần biết rằng những thứ như con dấu, chữ kí là công cụ để phục vụ quyền lợi cho chính họ_nhân dân_người được xem là chủ nhân thật sự của đất nước , thế thì tại sao lại phải “xin” .?
Sự hình thành những thói quen này là một đòn gián mạnh xuống uy tín của bộ máy cầm quyền và quan trọng hơn là sự châm ngòi cho hàng trăm thứ lớn hơn về sau: quan liêu, hối lộ, chạy án…Tham nhũng vặt thật sự có còn “vặt” như tên gọi của nó hay không thì cần nên xem xét lại.
Nhìn chung, tham nhũng hay các hình thức thoái hóa đạo đức khác đều xuất phát từ việc hình thành và rèn luyện nhân cách của mỗi cá nhân. Mạnh Tử đã nói: “Nhân chi sơ tính bổn thiện, tính tương cận tập tương viễn”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ lương thiện, nhưng do môi trường và sự tiếp cận học hỏi khác nhau mà tính tình đâm ra khác biệt nhau. Tuân Tử thì bảo: “Nhân chi sơ tính bổn ác, lý tính hậu lai tập đắc”, nghĩa là con người sinh ra ban đầu vốn dĩ là ác, nhưng sau này do học tập mà có lý trí, biết cái đúng cái sai. Mặc dù xuất phát từ hai quan điểm khác nhau nhưng cả hai bậc thầy của nền văn hóa Nho giáo này đều cho rằng môi trường và sự giáo dục sẽ làm con người thay đổi, nghĩa là giáo dục đóng vai trò quyết định cho bản tính, nhân cách của con người trong tương lai.
Giáo dục là quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách, được tổ chức có mục đích, có kế hoạch, thông qua hoạt động và quan hệ giữa nhà giáo dục và người được giáo dục nhằm chiếm lĩnh kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục là quá trình tác động tới thế hệ trẻ về đạo đức, tư tưởng, hành vi nhằm hình thành niềm tin, lý tưởng, động cơ, thái độ, hành vi, thói quen ứng xử đúng đắn trong xã hội.
Vấn đề giáo dục là nền tảng cho sự tiến bộ của quốc gia, trong đó đạo thầy trò luôn được đề cao “Tiên học lễ hậu học văn” “Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng là thầy”, “Không thầy đố mày làm nên”. Vậy mà đã từ khi nào những bài báo “trò đánh thầy” “trò dọa thầy” nhan nhản trên các tờ báo? Người ta nói “Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” , người đầu tiên cho ta sự nhận diện về tri thức, biết đạo nghĩa làm người hẳn là thầy ? Vậy mà nếu như một kẻ không biết kính trọng thầy thì liệu có hiểu hết được lễ nghĩa khác, liệu có hiếu được với cha mẹ, có trung thành với tổ quốc, có biết đến trên dưới, kính người cao tuổi, tôn trọng kẻ khác, có làm cho xã hội an bình hay không ?. Hơn nữa, nếu đã không biết kính thầy thì liệu có tiếp thu tri thức thầy truyền dạy, có trân trọng nó, nỗ lực đi tìm kiếm cái mới ? Một xã hội mà đạo nghĩa cơ bản không tồn tại thì đừng nói gì đến đi lên, nếu bản thân xã hội đó chưa lao đầu xuống vực thẳm .
Giáo dục tạo ra tri thức và nhân cách cho con người, tri thức tốt thì xây được một con thuyền vững mạnh; nhân cách tốt thì có được cái nhìn sáng suốt, định hướng được đường đi, bằng không thì sẽ bị lệch phương do “kiêu ngạo, thoái hóa, tham nhũng, khinh thường người già, không kính thầy cô”. Lời của cụ bảng nhãn xưa kia vẫn còn nguyên giá trị
Việt Nam chưa loạn, điều này là đáng mừng nhưng làm thế nào để nó luôn yên bình và phát triển ? Muốn thế, Việt Nam phải giải được những bài toán đã được đề cập, giải quyết được năm cái loạn đó, Việt Nam có thể tạo ra thế vững chãi mà tiến lên.
Trước hết cần phải nhìn lại, Việt Nam đang phát triển với những thành tựu không hề nhỏ trên khắp các lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, xã hội đến giáo dục thể thao.Chuyển từ nước nghèo sang nước có thu nhập trung bình, tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn vào khoảng 7%, 35 triệu người dân đã thoát nghèo, có khoảng 95% dân số được sử dụng điện. Việt Nam cũng tổ chức thành công những chương trình hội nghị ASEAN, APEC, các cuộc thi hoa hậu tầm cỡ thế giới, cũng từng nắm các chức vụ trong hội đồng bảo an liên hợp quốc, ghế chủ tịch ASEAN.
Không thể phủ nhận những nỗ lực của một quốc gia nhỏ và trẻ kinh nghiệm trên chính trường quốc tế như thế, tuy nhiên nhận ra những thành công ấy là để cỗ vũ bản thân phải cố gắng hơn nữa mà phấn đấu chứ không phải là để tự thỏa mãn bản thân mình vì không ai khác chính chúng ta biết rằng, những thành công ấy quả là còn khiêm tốn. Sự phức tạp của xã hội cũng như những sự rối ren trong phát triển kinh tế toàn cầu, sự chạy đua trên con đường thoát nghèo của hàng chục nước trên thế giới không cho phép một phút lãng phí nào dừng chân lại để tự thưởng cho bản thân. Nếu không ý thức được vị trí của mình mà cố gắng thì dường như đất nước ta sẽ một lần nữa bị sụp đổ không phải từ sự quấy nhiễu của Trung Quốc hay từ bất kì một lý do bên ngoài, mà lại chính bắt nguồn từ bên trong chúng ta.
Muốn có được một sự phát triển bền vững, nhất thiết phải “khoan thai sức dân”. Sức dân là nguồn tài nguyên, là mạch sống của một đất nước. Nhìn Nhật Bản và Zimbawe làm một ví dụ, một bên bị thiên nhiên tệ bạc vẫn cứ là một cường quốc, một bên từng nổi tiếng khắp cả châu Phi về sự giàu có, thì nay cũng đang nắm trong tay những kỉ lục về lạm phát và sự nghèo đói, điều gì khác nhau ở đó, phải chăng là “con người”?
Hưng nước thì phải lấy dân làm gốc, bắt đầu từ việc xây dựng con người tiến đến xây dựng gia đình và cuối cùng là hưng thịnh xã hội. Con người được cấu thành từ hai chữ tài và đức. Tài chính là “động cơ” một phần quan trọng giúp cho xã hội đi lên, làm cho đất nước phát triển ; đức chính là thứ “dầu nhớt” làm động cơ chạy tốt và bền bỉ. Thiếu động cơ thì không thể chạy được còn thiếu dầu nhớt thì không thể nào chạy yên…cần để cho một xã hội phát triển cần nhất là khai tài nhưng để cho một xã hội không loạn thì cần phải dụng đức.
Trong việc phát triển con người nền tảng nhất vẫn là từ phát triển giáo dục; phát triển giáo dục ở đây không phải là cứ dăm ba năm thay đổi một bộ sách giáo khoa hay chương trình học ; thành lập thêm hàng loạt các trường đại học và cao đẳng không cần thiết để nhanh đạt chuẩn của thế giới mà là phải xác định được Việt Nam cần cái gì, Việt Nam đang ở đâu. Đừng cứ nhìn sang nền học thuật thế giới mà hoảng sợ để rồi cứ chấp vá, vận dụng phương thức của họ vào nền giáo dục còn quá non yếu của mình, phải nhớ lại bài học thời bao cấp khi cứ cứng nhắc áp dụng những phương thức phát triển thần kỳ của Liên Xô để rồi không đi đến đâu cả. Những số tiền chạy theo những hào nhoáng để đánh bóng cho nền giáo dục Việt Nam tốt nhất hãy dùng vào việc nâng cao khả năng thực hành cho học sinh nội địa, mở rộng các chương trình nghiên cứu và thực sự triển khai những công trình nghiên cứu khoa học của sinh viên vào đời sống thực tế, đừng để những luận văn, những nghiên cứu đó chỉ được đóng sổ mạ vàng cất lên giá sách thư viện như hiện nay rất nhiều trường đại học vẫn làm. Giáo dục không những nên bắt đầu đề cao thực hành hơn là thứ lý thuyết cao cấp nhưng ít gắn với thực tế trong sách vở mà còn phải nên chú trọng việc phát triển chế tài để ngăn cản những vấn nạn bệnh thành tích, chạy điểm ,chạy trường vốn đã là ung nhọt trong xã hội. Việc coi nhẹ công tác hướng nghiệp và không chú trọng nâng cao chất lượng trường đại học mà lại chạy theo nâng nhanh số lượng trường đại học làm cho Việt Nam luôn ở trong tình trạng “vừa thiếu vừa thừa”. Nên chứ trọng vào việc đào tạo trọng điểm chứ không nên chạy tràn lan, soạn thảo một chương trình giáo dục thống nhất từ trên xuống dưới phù hợp, nâng cao những kĩ năng thực hành, coi trọng hướng nghiệp; mở rộng và đề cao những công trình nghiên cứu, tạo điều kiện tốt nhất cho những nhà khoa học sống và làm việc thì có lẽ một tương lai không xa, Việt Nam ít nhất sẽ không còn những cảnh “cười ra nước mắt” khi các mùa tuyển dụng việc làm bắt đầu, nhớ gần đây khi tập đoàn Intel tuyển kĩ sư công nghệ cho nhà máy mới, tỷ lệ được tuyển chọn là: trong 100 người được phỏng vấn chỉ có 3 người thỏa điều kiện.( tỷ lệ này ở Mỹ là 5.5/10).
Chú trọng phát triển tài cũng phải cố gắng trọng đức, đức không đến từ quyển sách “Giáo dục công dân”, mà đến từ hành động, cử chỉ lời nói của những người lớn hơn. Việc cư xử thường ngày tưởng đơn giản nhưng sẽ là những bài giảng dạy trực tiếp của ta đối với trẻ nhỏ. Những hành động vô thức của người lớn như : vứt rác, tham nhũng vặt, vượt đèn đỏ, không hiếu kính cha mẹ sẽ được trẻ em vô thức học tập và nhanh chóng trở thành những thói quen về sau, chính những thói quen này sẽ trở thành tiềm thức và hành động xấu cho tương lai. Việc phát triển tài đức phải cố gắng tạo cho thế hệ tương lai một lòng tin, lòng tin về đất nước ta nhỏ nhưng không nhỏ, ta cũng có chủ quyền cũng có phát triển, cũng có những tiếng nói trên chính trường, đừng tạo ra hình ảnh một đất nước nhỏ bé đáng thương phải luôn khép mình, luồng cúi trước nước khác. Phạm Lãi thời Ngô Quốc đã nói “Lòng tin là thứ vũ khí đáng sợ nhất để một nước có phải là nhược tiểu hay không”, chính lòng tin, sự tự hào sẽ là động lực thúc đẩy để cố gắng mà xây dựng đất nước, nó không như sức lực con người hay tài nguyên thiên nhiên có hạn, nó là vô hạn, chính lòng tin sẽ giúp bản thân mỗi người biết hướng đến việc tu rèn đạo đức và tài năng của bản thân để mưu cầu một tương lai tốt đẹp hơn cho bản thân và cho dân tộc.
Từ việc tạo điều kiện cho cá nhân phát triển, hướng đến việc phát triển gia đình, lấy một gia đình yên ấm, hạnh phúc làm nền tảng cho sự phát triển của xã hội. Tìm hiểu nguyện vọng của nhân dân, tìm kiếm điều có lợi của nhân dân mà làm đến, đừng vì những huyễn hoặc với thế giới mà phải đưa nhân dân vào những cảnh không có đường lùi. Mới gần đây, Trung Quốc đang chịu thảm họa đường sắt nghiêm trọng nhất trong vòng ba năm qua với 38 người chết, gần 200 người bị thương, những cảnh tỉnh này là một hồi chuông dự báo trước tham vọng về dự án tàu siêu tốc đã nhiều lần bị phanh phui về những vụ tham nhũng, ăn bớt nguyên vật liệu. Nhìn người ngó ta, liệu rằng khi Việt Nam đề xuất xây dựng tuyến đường cao tốc bắc nam mà đến đời con cháu chắc chắn vẫn còn phải oằn mình trả nợ, có nên biết rằng đừng biến dân thành vật hy sinh cho sự phát triển thần tốc, sự hưng thịnh của một nước không dựa vào những bộ đồ đẹp đẽ mà nó đang mặc mà lại dựa vào nội lực bên trong, ngàn đời tốt gỗ vẫn hơn tốt nước sơn.
Coi trọng nguyện vọng của người dân, tiến đến xây dựng gia đình để cuối cùng có thể tạo lập được xã hội. Trong xã hội cần nhất là việc đưa ra những chế tài thích hợp để có thể tạo ra một khung sườn cho sự phát triển, chiếc khung này không được quá gò bó để ngăn chặn đi những cơ hội của đất nước nhưng cũng đừng quá lỏng lẻo vì có thể để lọt lưới mánh khóe mưu cầu cá nhân của kẻ khác.
Xã hội đi từ việc xây dựng gia đình mà gốc chính là việc hình thành con người vì thế cho nên việc đối xử với hiền tài, thu phục được kẻ sĩ là chính sách đáng quan tâm nhất trong việc “hưng thịnh xã hội”.
Theo số liệu năm 2009 của Sở Giáo dục - Đào tạo, hiện số lượng du học sinh của Việt Nam vào khoảng khoảng 60.000 người và ngày càng có xu hướng tăng. Tuy nhiên gần 70% trong số đó là “một đi không trở lại”, số chất xám thất thoát bị dự báo lên đến 50.000 người. Thực tế cho thấy rằng lý do dẫn đến sự chảy máu chất xám này phần lớn nằm ở điều kiện làm việc còn eo hẹp, những ưu đãi và hỗ trợ còn thấp, nạn “con ông cháu cha” vẫn còn hoành hành. Sư bất công, bất hợp lý và nghèo nàn trong môi trường làm việc từng được xem là nguyên nhân hàng đầu làm cho kẻ sĩ quay đầu với vận nước.
Thời Lý, lúc đề bia Văn Miếu Quốc tử giám, tiến sĩ Thân Nhân Trung đã từng viết: “Hiền tài là nguyên khí Quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn….”, để đất nước đi lên ắt hẳn phải có chính sách hợp lý để “chiêu hiền đãi sĩ”. Hãy nhìn sang Singpore để học tập điều này, đảo quốc sư tử từ một vũng ao tù trở thành điểm sáng trên bản đồ kinh tế thế giới chính là nhờ thông qua chính sách thu hút nhân tài bài bản và chuyên nghiệp, cách làm của Singapore không phụ thuộc nhiều vào tiềm lực vốn có mà vận dụng bộ óc để lợi dụng người khác làm đòn bẩy.
Tự nhận biết người tài trong nước là có giới hạn, giới lãnh đạo Singapore bắt tay ngay vào việc hoạch định chính sách nhân tài “giữ chân chất xám trong nước đồng thời tuyển mộ nhân tài nước ngoài thông qua việc sử dụng người nhập cư” như đòn bẩy kép để đảm bảo sự hóa rồng của mình.
Năm 1998, sau cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, Singapore thành lập hẳn “Ủy ban Tuyển dụng Tài năng Singapore”. Ủy ban này hoạt động với bốn nguyên tắc vàng: trọng dụng nhân tài trong bộ máy nhà nước không phân biệt người nhập cư hay dân bản địa, tạo ra mức lương và ưu đãi tương xứng với chất xám bỏ ra, tiến hành nâng cấp chất xám thông qua đầu tư cùng trợ cấp giáo dục và cuối cùng là tạo dựng niềm tin để tạo sự gắn bó lâu dài.
Với quan niệm “Lãnh đạo dốt sẽ ngáng chân những người giỏi, không cho họ ngồi vào những vị trí quan trọng” , thủ tướng đầu tiên của Singapore Lý Quang Diệu đã luôn ý thức được trình độ chứ không phải là xuất thân của một con người khi đưa họ lên vị trí lãnh đạo hay người đứng đầu những công ty nhà nước, nội các đầu tiên của Singapore chỉ gồm hai người là người bản địa. Nhìn lại Việt Nam, tuy đã thoát khỏi chế độ quân chủ nhưng bóng ma của chế độ cũ , tập tục “cha truyền con nối” vẫn còn hằn dấu trong bộ máy công quyền ngày nay. Dùng lịch sử để che đậy hay để tâm quá nhiều đến những mối quan hệ cũ trong quá khứ đã ngăn cản sự trọng dụng người tài trong nước chứ đừng nói gì là đến việc thuê nhân tài nước ngoài.
Bên cạnh trọng tài trong quản lý nhà nước, Singapore còn trọng tài với những vật chất, lương thưởng có quy định rõ ràng. Lương của lao động bình thường ở Singapore chỉ khoảng 2.000 USD/tháng hoặc cao hơn chút ít. Còn với lao động nước ngoài có kĩ năng, tay nghề, ngoài việc được hưởng lương theo mức của các nhân tài, họ còn được phép đưa người thân sang sống cùng. Họ được cấp giấy phép định cư và nhập tịch lâu dài tại Singpapre chỉ trong vài ngày. Đi liền với đó, Singapore cũng hạn chế lao động nước ngoài không có tay nghề bằng việc chi trả thu nhập thấp, không được phép đưa người thân sang sống cùng. Những chi phí khác cho dịch xụ xã hội của họ cũng cao hơn người bình thường. Bên cạnh đấy, Singapore cũng xác định giáo dục là một kênh hữu hiệu thu hút du học sinh nước ngoài. Chính vì vậy, ngoài cải tiến hệ thống giáo dục, Singapore cũng có chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho các giáo sư tiến sĩ. Sinh viên nước ngoài đến học tập tại Singapore được vay tiền để chi trả cho những chi phí cần thiết về sinh hoạt và học tập. Sau khi tốt nghiệp với kết quả học tập cao, những cử nhân "ngoại" này phải cam kết làm việc cho một công ty nào đó của Singapore ít nhất là 3 năm để trả nợ.
Điều cuối cùng nhưng cũng không kém phần quan trọng, “tạo niềm tin cho người tài”.Ở Singapore, những người tài ngoài thu nhập, nhu cầu được cống hiến, được tôn trọng và được vinh danh là rất lớn. Singapore luôn đề cao câu nói “Có thể các bạn chưa cần đến chúng tôi nhưng chúng tôi luôn cần đến các bạn”, đề cao vai trò, đảm bảo cho cuộc sống của nhân tài cùng với nhân thân của họ. Những binh pháp dùng người với vật chất tinh thần đầy đủ, Singapore là một tấm gương điển hình cho Việt Nam học tập.
Có thể xem chính sách thu hút nhân tài như một loại thuốc bổ để nâng cao năng lực cạnh tranh, tuy nhiên, phải nhớ rằng, bên cạnh thuốc bổ, Việt Nam còn cần tìm cho mình những phương thuốc khác để có thể chữa những căn bệnh đã bị bám rễ lâu trong xã hội như tham nhũng, quan liêu, sự suy thoái đạo đức của nhiều cán bộ..Chỉ khi biết kết hợp giữa thuốc bổ và thuốc chữa bệnh thích hợp, xã hội này mới thực sự khỏe mạnh.
Ví dụ như trong việc chữa căn bệnh thế kỉ của sự phát triển “tham nhũng” cần phải có những động thái mạnh mẽ và cương quyết hơn. Muốn thế, thứ nhất là phải tuyển chọn người có tài và đức nắm giữ ở vị trí quan trọng. Thứ hai phải có chế độ đãi ngộ tốt với lương bổng và phúc lợi xã hội thích đáng để giúp họ dồn hết tâm sức cho việc hoạch định chính sách. Thứ ba là phải công khai minh bạch tất cả những thu nhập của cán bộ, giới cầm quyền. Thứ tư phải có những chế tài xử phạt nặng như chung thân hay thậm chí là tử hình đối với căn bệnh này. Những vụ án xét xử tham nhũng ở Việt Nam thường hình phạt khá thấp, thời gian xét xử cũng lâu và thường không quá minh bạch , đây chính là một cách “vẽ đường cho hươu chạy” mà thôi.
Nói tóm lại, muốn xây dựng một đất nước giàu mạnh, một xã hội hưng thịnh cần có sự đoàn kết của toàn dân, bắt đầu từ việc hình thành ý thức rèn luyện con người, xây dựng gia đình và cuối cùng là tạo lập xã hội. Nên nhớ, trong việc xây dựng quê hương xuất phát từ lòng yêu nước, ai cũng có quyền và nghĩa vụ như nhau. Có một câu nói của TS Nguyễn Gia Minh làm tôi rất tâm đắc“Không thể có chỗ đứng cho cơ chế bao cấp đối với lĩnh vực thiêng liêng nhất trong trái tim và khối óc mỗi người Việt chúng ta, đó là lòng yêu nước. Bởi lẽ biển cả trí tuệ và lòng dũng cảm của nhân dân bao giờ cũng vô địch, nó có thể đưa cả con tàu vượt ngàn trùng nhưng cũng có thể lật thuyền ngay cả nơi nước cạn”
Bất kể ai cũng là một phần quan trọng cho một đất nước hưng thịnh, ngay cả bạn và tôi, chúng ta là những kẻ vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường hay những kẻ đã lăn xả ra ngoài xã hội. Điều quan trọng là có ý thức được trách nhiệm và tầm quan trọng của bản thân mình hay không, một kẻ không tôn trọng bản thân mình thì đừng hy vọng sẽ nhận được sự tôn trọng của kẻ khác, phải tự vấn bản thân mà rèn luyện tu dồi đạo đức và quan trọng hơn là việc tìm và theo đuổi lý tưởng của mình. Ngạn ngữ đã từng nói “Cuộc đời mỗi con người vốn chìm trong bóng đêm mà lý tưởng sống chính là ngọn đuốc giúp tìm ra đường đi”. Chính lý tưởng chứ không phải điều nào khác sẽ chữa lành căn bệnh thờ ơ “ngoảnh mặt trước thời cuộc”. Trong thời kì công nghiệp hóa-hiện đại hóa, kinh tế thế giới hội nhập, khoa học kĩ thuật hiện đại, con người đặt ra vấn đề về lẽ sống của cuộc đời và sống như thế nào cho xứng đáng, trước hết, ta cần phải xác định lý tưởng sống đúng đắn, dự tính về tương lai sẽ cống hiến cho xã hội về những mặt nào. Tiếp theo ta cần phải lên kế hoạch học tập, rèn luyện kĩ năng, sức khoẻ, tư tưởng nhằm thực hiện mục đích đó. Sau đó, ta phải tích cực tham gia các hoạt động xã hội, chính trị; điều này sẽ giúp cho bản thân hòa nhập cộng đồng. Ta cần phải phát huy những thế mạnh của bản thân, khắc phục các điểm yếu và vân dụng những điều đã học vào thực tế.
Đất nước ta đang phát triển, là người Việt Nam dù ở bất cứ nơi đâu, chắc hẳn ai cũng có một lòng thành dành cho đất nước nhưng lòng thành ấy phải nên hóa hành động để có thể làm cho đất nước hưng thịnh hơn xưa. Nuôi dưỡng lý tưởng cho bản thân, gầy dựng lòng tin cho chính mình, bắt đầu từ mỗi cá nhân sẽ tảo ra sự lan tỏa cho toàn dân tộc, gây dựng ý chí bên trong sẽ tạo ra thế vững chắc nhất cho sự đi lên, hãy làm ngay hôm nay để một ngày kia Việt Nam thực sự hóa rồng.
PHẠM HOÀNG DIỄM
No comments:
Post a Comment